Ngày 27/4/2012, một đám tang lặng lẽ được diễn ra tại thủ đô Paris của nước Pháp. Khi chiếc nắp quan tài được đóng lại, nhiều người có mặt đã không cầm được nước mắt tiễn biệt bác sĩ Henriette Bùi – nữ bác sĩ đầu tiên của Việt Nam, người tiên phong, mở đường cho giới phụ nữ Việt thời đó noi gương và theo chân bà dấn bước vào con đường y học…
Bà Henriette Bùi sinh ngày 8 tháng 9 năm 1906 tại Hà Nội. Cha bà là một nhân vật có thế lực và nổi tiếng ở Nam kỳ, nghị viên Bùi Quang Chiêu. Ông mang quốc tịch Pháp, là kỹ sư canh nông và cũng là chủ báo “La Tribune Indochinoise”. Mẹ bà, một phụ nữ Việt gốc Hoa là con của một đông y sĩ và cũng là một trong những người buôn bán địa ốc giàu có nhất vào thời bấy giờ.
Tuy nguyên quán ở trong Nam, bà lại được sinh ra ở Hà Nội và lớn lên ở Sài Gòn. Thuở nhỏ, bà học Trường St Paul de Chartres, tức Trường Nhà Trắng tại Sài Gòn. Năm 1915, bà thi vượt cấp và đậu bằng Certificat sớm 2 năm. Sau đó, bà vào học trường Collège des Jeunes Filles, trước năm 1975 là Trung học Gia Long Sàigòn, nay là Trung học Nguyễn Thị Minh Khai.
Bà sang Pháp du học năm 15 tuổi. Một năm sau đó, mẹ bà qua đời vì bệnh lao phổi. Có lẽ việc này đã tăng thêm nguyện vọng của bà theo ngành y. Việc học của bà bị gián đoạn một năm vì bệnh đau mắt (trachoma), tuy nhiên đến năm 1926, bà cũng tốt nghiệp bậc trung học tại Lycée Fenelon ở Paris. Anh bà là Louis Bùi Quang Chiêu – một bác sĩ chuyên về bệnh ho lao nổi tiếng tại Sài Gòn – luôn là tấm gương sáng để bà noi theo. Ước mơ được làm thầy thuốc chữa bệnh cho mọi người của bà cũng bắt nguồn từ ông anh này.
Đến năm 15 tuổi, bà nằng nặc đòi cha cho xuất ngoại, sang Pháp du học. Thương con, ông Bùi Quang Chiêu đành phải thuê một thầy giáo đi cùng để chăm lo cho bà sinh hoạt và học tập trên đất Pháp.
Năm 1927, bà theo học Đại học Y khoa Paris (tiếng Pháp: Faculté de Médecine de Paris) thuộc Đại học Paris. Là phụ nữ người Việt, sự hiện diện của bà trong trường chuyên môn ở Pháp là một bước đột phá trong hệ thống giáo dục chính quốc tại Pháp thời bấy giờ. Cũng trong thời gian học tại Đại học Paris, bà quen biết với nhiều người Việt đang học tại đây, đặc biệt là một sinh viên trẻ đang theo học ngành cầu đường là Nguyễn Ngọc Bích, con trai Đốc phủ sứ Nguyễn Ngọc Tương.
Vốn là một học sinh xuất sắc và rất thông minh, không bao lâu ngoài tiếng Việt, tiếng Pháp và Trung Hoa, bà còn thông thạo nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, Tây Ban Nha, Ý và cả những cổ ngữ như La Tinh và Hy Lạp. Việc bà Henriette Bùi trở thành sinh viên y khoa là một hiện tượng lạ vào thời bấy giờ. Sự có mặt một phụ nữ Việt tại một trường đại học danh tiếng của Pháp là bước đột phá trong hệ thống giáo dục của nước này.
Năm 1934, bà bảo vệ luận án tốt nghiệp xuất sắc, được hội đồng giám khảo khen ngợi và tưởng thưởng huy chương. Khi trở về Việt Nam năm 1935 bà nhậm chức trưởng khoa hộ sinh ở Chợ Lớn. Với khí khái độc lập, bà bị các y sĩ người Pháp gây khó dễ. Cách cư xử của bà biểu hiện quan niệm bình đẳng, bình quyền giữa nam và nữ, cũng như bình quyền chủng tộc giữa người Việt và người Pháp.
Cũng trong năm 1935, bà lập gia đình với luật sư Vương Quang Nhường, Tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của người Việt, một đảng viên Đảng Lập hiến Đông Dương. Tuy nhiên chỉ không đầy 2 năm sau, hai người ly hôn vì khác biệt trong cách sống.
Bấy giờ, việc một người đàn bà ra tòa xin ly dị chồng được người Việt Nam xem như là một chuyện không thể nào tin được, nhất là một người trong gia đình danh giá như gia đình ông Bùi Quang Chiêu.
Về sau, khi nói về cuộc hôn nhân này, bác sĩ Henriette Bùi cho biết: “Hồi đó, ngay cả ở Pháp, phụ nữ học ngành y cũng rất ít. Ra trường, cũng không ít nữ bác sĩ bỏ nghề vì phải lấy chồng, sinh con. Tôi cũng không thoát khỏi định kiến xem thường phụ nữ thời ấy. Vừa tốt nghiệp bác sĩ, tôi đã bị cha triệu về Việt Nam để gả chồng… Người chồng mà cha tôi chọn cho tôi là một người đàn ông rất tốt, rất có tài, rất dễ thương và bao giờ cũng dành cho tôi một sự săn sóc tận tình. Tôi không có điều gì chống lại ông ta cả. Ông ta là một luật sư, tôi là một bác sĩ… Nhưng mà ông ta luôn luôn than phiền rằng ông ta ít khi thấy tôi ở nhà, ông ta không thể nào chịu đựng được việc tôi phải làm việc tối ngày ở bệnh viện, nhất là những khi phải vào bệnh viện để chữa trị những trường hợp cấp cứu vào ban đêm… Còn phần tôi thì tôi đã quyết tâm phục vụ cho y học, phục vụ cho đồng bào của tôi, tôi không thể bỏ mấy chục năm theo đuổi việc học để ngồi nhà hầu hạ cho chồng. Chúng tôi ly dị, đó là chuyện rất đơn giản và sau đó thì chúng tôi vẫn coi nhau như bạn bè. Nhưng nói cho ngay thì hồi đó (năm 1937) quả thật vụ ly dị của tôi đã gây ra một xì-căng-đan rất lớn tại Sài Gòn.”

Đến cuối năm 1945 thì gia đình Henriette Bùi Quang Chiêu đã xảy ra một biến cố lớn. Ông Bùi Quang Chiêu cùng với ba người anh em trai của Henriette Bùi Quang Chiêu bị bắt và giết chết. Cũng từ đó, bà Henriette Bùi Quang Chiêu dốc mọi tâm sức vào việc nghiên cứu, khám chữa bệnh của mình.
Năm 1957 bà sang Nhật Bản học nghề châm cứu rồi về nước và phát triển hướng nghiên cứu với nhiều áp dụng có hiệu quả cho ngành sản khoa.
Đến năm 1961, Henriette Bùi Quang Chiêu sang Pháp và mở ở đây một phòng mạch. Cũng tại Pháp, Henriette Bùi Quang Chiêu đã gặp lại ông Nguyễn Ngọc Bích. Mối thân tình mà hai người đã có phát triển thành tình yêu. Bà Henriette Bùi Quang Chiêu và ông Nguyễn Ngọc Bích về sống với nhau như vợ chồng. Tuy nhiên, không may là ông Nguyễn Ngọc Bích lại bị ung thư vòm họng. Thế nên, sau 4 năm chung sống trên đất Pháp, năm 1965, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã đưa ông Nguyễn Ngọc Bích trở về Việt Nam để ông có thể sống những ngày cuối đời ở quê hương.
Ngay trong năm đó, ông Trần Ngọc Bích mất. Cũng từ đó, khi còn lại một mình, bà Henriette Bùi Quang Chiêu đã không ngừng tích cực tham gia các hoạt động khám, cứu chữa thương bệnh binh trong chiến tranh.
Vào năm 1970, bà tình nguyện vào phục vụ không lương trong ngành hộ sản và nhi khoa tại Bệnh viện Phú Thọ ở vùng ngoại ô thành phố Sài Gòn.
Mãi đến năm 1971, bà Henriette Bùi Quang Chiêu mới sang lại Pháp. Ở đây, bà tiếp tục khám chữa bệnh cho đến năm 1976 mới nghỉ hưu sau khi phục vụ trong ngành y khoa tại Việt Nam cũng như tại Pháp hơn 44 năm trời. Bà hiến tặng biệt thự tư gia của bà ở số 28 đường Testard làm cơ sở cho Trường Đại học Y khoa Sài Gòn thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Ngày nay nơi này là Bảo tàng Chứng tích chiến tranh (28 Võ Văn Tần, quận 3, TPHCM).
Bác sĩ Henriette Bùi hưởng thọ 106 tuổi và theo di nguyện, thi hài của bà được hỏa táng tại đài hỏa táng nghĩa trang Père-Lachaise (Paris 75020). Sau đó bà được án táng tại Tòa Thánh Cao Đài tỉnh Bến Tre, thọ 105 tuổi.
Media99 tổng hợp
Nguồn: http://phunuvietnam.vn/kho-bau/cuoc-doi-thang-tram-cua-nu-bac-si-viet-nam-dau-tien-post5718.html
https://vi.wikipedia.org/wiki/Henriette_B%C3%B9i_Quang_Chi%C3%AAu